Bạch cập (Bletia hyacinthine R.Br. ex Ait), tên khác là liên cập thảo, là một cây thảo, địa sinh, sống lâu năm. Thân rễ chia nhánh hình cầu, dẹt, xếp thành chuỗi lá dài có bẹ mọc ốp vào nhau thành 2 dãy. Hoa màu hồng tím mọc thành chùm ở ngọn. Quả nang hình thoi. Thân rễ (thường gọi là củ) là bộ phận dùng làm thuốc duy nhất của bạch cập được thu hái tốt nhất vào mùa thu đông, cắt bỏ gốc thân và rễ con, rửa sạch, đem đồ hoặc nhúng vào nước sôi cho đến khi mặt trong và thân rễ có màu trắng đục, rồi bóc vỏ ngoài phơi nắng nhẹ hoặc sấy nhỏ lửa cho khô.
Trong y học cổ truyền, bạch cập có vị đắng, ngọt, hơi dính, tính lạnh, không độc, có tác dụng bổ phổi, cầm máu, sinh cơ, làm tan máu ứ, hàn vết thương, được dùng trong những trường hợp sau:
Dùng trong
Chữa chảy máu cam: Bạch cập phơi khô kiệt, tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 - 8g. Đồng thời lấy bông thấm thuốc nhét vào lỗ mũi.
Chữa thổ huyết, chảy máu dạ dày: Bạch cập 100g, tam thất 50g, tán bột ngày uống 6 - 12g chia làm 2 - 3 lần.
Chữa loét dạ dày, phân đen: bạch cập 40g, trầm hương 20g, hoài sơn 20g (sao). Tất cả tán thành bột mịn, mỗi lần uống 12 - 20g vào lúc đói.
Dùng ngoài
Chữa mụn nhọt, sưng tấy, bỏng lửa: Bạch cập phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, hòa vào dầu vừng bôi hàng ngày.
Chữa vết thương: Bạch cập 20g tán bột, bồ hóng 10g, vôi bột 20g. Tất cả trộn đều, ngày rắc 2 - 3 lần trong nhiều ngày hoặc bạch cập 20g, lá bông ổi 30g, gừng khô 10g, phơi khô tán bột mịn, rắc lên vết thương đang chảy máu, máu sẽ cầm ngay.
Hoặc bạch cập 50g, thạch cao 50g, phơi khô, tán nhỏ, rây mịn. Khi dùng, rửa vết thương bằng nước lá trầu không (20 lá trầu, rửa sạch đun với 1 lít nước để nguội, lọc, cho 2g phèn phi đã tán nhỏ, khuấy cho tan). Rắc bột lên vết thương, băng lại, ngày làm 1 lần.
(Theo TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích // Sức khỏe & Đời sống)
0 Comments:
Post a Comment