Rối loạn chức năng dạ dày (RLCNDD) chiếm xấp xỉ 50% số bệnh nhân đến khám bị rối loạn tiêu hóa và thường gặp ở các đối tượng là người trẻ, nhất là lứa tuổi dậy thì; người có trạng thái thần kinh dễ xúc cảm hoặc người có trạng thái rối loạn thần kinh thực vật.
Vì sao chức năng dạ dày rối loạn?
Có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến rối loạn vận động và rối loạn tiết dịch của dạ dày, song có thể tóm lược làm hai nhóm nguyên nhân chính:
Nguyên nhân nguyên phát: thường là do những yếu tố thần kinh tâm thần gây nên, ví dụ như sự bực tức, phẫn nộ làm cho niêm mạc dạ dày nhợt màu, ức chế tiết dịch và giảm nhu động hay sự sợ hãi làm niêm mạc dạ dày xung huyết, tăng tiết nhu động cũng tăng.
Nguyên nhân thứ phát: thường xảy ra sau các bệnh viêm đại tràng mạn, viêm ruột thừa mạn, viêm tụy mạn, viêm túi mật mạn, viêm gan mạn hoặc do sai lầm trong ăn uống: Ăn vội vã, nhai không kỹ, giờ giấc ăn thất thường, lao động nặng nhọc ngay sau bữa ăn, hoặc vừa làm vừa ăn, ăn nhiều gia vị, ăn uống chất quá nóng, quá lạnh, hút thuốc lá, cà phê, chè đặc khi đói, ăn uống quá nhiều bia rượu.
Phân loại rối loạn chức năng dạ dày
Nhóm bệnh gây rối loạn vận động: thường gặp là các bệnh như giảm trương lực dạ dày, mất trương lực dạ dày, giãn dạ dày cấp, tăng trương lực dạ dày, co thắt môn vị, co thắt tâm vị.
Nhóm bệnh gây rối loạn tiết dịch: vô dịch vị (Achilie), vô toan, tăng toan, tăng tiết.
Ngoài hai rối loạn nêu trên còn thêm rối loạn cảm giác: đau ở dạ dày.
Cần chú ý ba rối loạn trên có thể cùng có ở một bệnh nhân, hoặc một bệnh nhân chỉ xuất hiện một trong ba rối loạn kể trên.
Xử trí bệnh như thế nào?
Tùy theo các biểu hiện lâm sàng của bệnh mà có các biện pháp xử trí khác nhau. Sau đây là một số biểu hiện thường gặp và biện pháp xử trí.
Giảm trương lực dạ dày: thường xuất hiện sau chấn thương các loại; sau căng thẳng thần kinh tâm thần; bội thực sau một thời gian dài nhịn đói; sau một số bệnh lý: viêm đường mật, viêm tụy, viêm dạ dày. Các biểu hiện chính là: mệt mỏi, giảm sức lao động, khó ngủ; cảm giác đầy bụng, ậm ạch, đau lâm râm, ăn kém, chóng no, buồn nôn, nóng rát, ợ hơi, đại tiện táo hoặc lỏng, trướng bụng, sình ruột; Xquang thấy dạ dày giãn dài, co bóp yếu. Người bệnh nên được xoa bóp, vật lý trị liệu. Ăn uống điều độ. Dùng thuốc motilium và vitamin nhóm B.
Giãn dạ dày cấp: thường xuất hiện sau chấn thương ổ bụng (mổ, vết thương); viêm tụy có mủ; ăn hoặc uống quá mức kéo dài. Biểu hiện chủ yếu: Đau thượng vị dữ dội, đột ngột như đau bụng cấp hoặc đau bụng âm ỉ, ậm ạch; nôn nhiều, kéo dài gây rối loạn điện giải, kiềm máu có thể dẫn đến tử vong, tỷ lệ tử vong khoảng 40-50%. Xquang thấy dạ dày giãn to, ứ đọng thức ăn, dịch. Có thể phải đặt sonde hút dạ dày liên tục, không được rửa dạ dày và dùng những thuốc đặc hiệu khác. Không được dùng morphin, promedol.
Tăng trương lực dạ dày: Nguyên nhân do chấn thương tâm thần, nhiễm độc chì, thiếc mạn tính; trong các cơn đau quặn gan, thận; trong bệnh viêm loét dạ dày, đại tràng. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đau thượng vị thường xuyên, tăng khi xúc động, khi lao động; buồn nôn, nôn, ợ chua, ợ hơi. Hình ảnh Xquang thấy dạ dày hình sừng bò. Biện pháp điều trị là không sử dụng các chất kích thích, dùng thêm sinh tố, thuốc an thần, chống co thắt cơ trơn.
Co thắt môn vị: Nguyên nhân do loét dạ dày tá tràng, polýp dạ dày; viêm dạ dày tăng toan; viêm đại tràng mạn; nghiện thuốc lá nặng; thiếu vitamin B1. Triệu chứng: đau hạ sườn phải giống đau quặn gan; nôn nhiều gây rối loạn điện giải, kiềm máu; có thể sờ thấy một khối u rắn ở hạ sườn trong cơn đau; Xquang: ứ đọng baryt ở dạ dày. Người bệnh nên ăn uống nhẹ tránh các chất kích thích; dùng thuốc an thần, giãn cơ và truyền dịch khi nôn nhiều.
Tăng toan: Xuất hiện do căng thẳng thần kinh, tâm thần, nghiện thuốc lá; loét dạ dày, hành tá tràng, viêm dạ dày giai đoạn đầu. Biểu hiện: Đau thượng vị, cảm giác nặng bụng, HCl tự do tăng trên 40mEq. Bệnh nhân nên ăn uống điều độ, bỏ thuốc lá. Dùng các thuốc giảm tiết, sinh tố, an thần.
Bệnh Achili: là tình trạng dịch vị thiếu HCl cùng với pepsin thực thể và chức năng. Nguyên nhân do căng thẳng thần kinh, nhiễm độc kim loại, rượu hay sau các bệnh dạ dày - ruột, sau nhiễm khuẩn mạn (lao, Brucedlose). Cũng có thể do bệnh hệ thần kinh, thiếu sinh tố. Biểu hiện bệnh là cảm giác nặng bụng, nóng rát, đau âm ỉ, có lúc nhói vùng thượng vị, buồn nôn, nôn mửa, ăn mất ngon. Nhiều trường hợp bị tiêu chảy, đi ngoài phân sống, gầy sút, lưỡi bóng đỏ, thiếu máu, chảy máu vết ấn răng trên lưỡi. Điều trị bệnh bằng chế độ ăn dễ tiêu hóa, dùng dung dịch pepsin và HCl 1% uống, kết hợp với dùng các loại sinh tố, có thể dùng thuốc an thần trong trường hợp đau nhiều và mất ngủ nhưng phải theo chỉ định của bác sĩ
(Theo Tretoday)
0 Comments:
Post a Comment