Những người dùng thuốc chống đông lâu dài dễ bị thiếu hụt vitamin K. Liệu những người này có bị ảnh hưởng lên mạch máu? Câu trả lời là có. Một nghiên cứu chứng tỏ dùng thuốc chống đông kéo dài làm tăng gấp đôi nguy cơ đột quỵ. Do vậy việc những bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông cũng cần phải được theo dõi thường xuyên.
Phòng xơ hoá động mạch ở người cao tuổi
Quả kiwi chứa nhiều vitamin K, tốt cho hệ tim mạch
Xơ hoá động mạch là một bệnh lý nguy hiểm, dẫn đến cơn đau tim và đột quỵ. Bình thường động mạch mềm mại, gấp lại dễ dàng như ống nhựa mềm. Trong thành động mạch có lớp cơ trơn, khi co lại có tác dụng co bóp làm máu lưu thông. Một động mạch bị xơ cứng thì không thể co bóp được. Tuổi cao là một nguyên nhân chính của xơ cứng động mạch. Khi sinh thiết tử thi ở một bệnh viện công lập vào đầu những năm 1900, nhà giải phẫu bệnh học người Đức Monckeberg nhận thấy lớp giữa thành động mạch bị vôi hoá, chính là cơ sở của xơ hoá động mạch,không nhìn thấy được. Xơ hoá động mạch xảy ra do tuổi cao, chứ không liên quan gì đến cholesterol cả. Đó là vôi hoá lớp giữa động mạch. Trong khi đó xơ vữa động mạch lại xảy ra bên trong thành mạch, có thể nhìn thấy được. Vitamin K2 đặc biệt giữ không cho canxi và phospho lắng đọng vào động mạch chủ và làm đảo nghịch hiệu quả của thức ăn không tốt cho tim. Qua nghiên cứu các nhà khoa học cho thấy vitamin K dường nhưcó tác dụng làm dừng quá trình vôi hoá và cứng thành mạch máu.
Bảo vệ tim mạch ở người trẻ tuổi
Đột tử do cơn đau tim kết hợp với canxi hoá động mạch, chủ yếu ở người trẻ. Trong nghiên cứu tim mạch mang tên Fragmingham, một nam giới 35 tuổi bị vôi hoá động mạch chủ có nguy cơ tử vong do cơn đau tim cấp tăng gấp 7 lần bình thường. Những người dưới 65 tuổi có nguy cơ tử vong do cơn đau tim gấp 2 lầnnếu bị vôi hoá thành động mạch chủ. Trong một thí nghiệm trên động vật, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã sử dụng chế độ đặc biệt trong 3 tuần để gây nên xơ vữa động mạch, rồi tính lượng canxi lắng đọng trong thành động mạch. Một số động vật được cho ăn thêm 100 mg/kg cân nặng vitamin K. Những con vật không dùng vitamin K thì nồng độ canxi khoảng 17,5 mcg/mg, còn vitamin K giảm trung bình 1 mcg/kg. Các tổn thương van tim bị thoái lui nhanh chóng bởi dùng vitamin K.
Dự phòng các cục máu đông
Khả năng này của vitamin K là do dự phòng lắng đọng tiểu cầu, một quá trình khác với đông máu. Lắng đọng tiểu cầu là do stress ôxy hoá và gốc tự do trong khi đó vitamin K có tác dụng chống ôxy hoá mạnh. Một số nghiên cứu trên động vật bị stress ôxy hoá chỉ ra rằng vitamin K mạnh hơn vitamin E trong việc lọc sạch các gốc tự do, phòng ngừa tổn thương tế bào do bị ôxy hoá bởi các gốc tự do. Hiệu quả đạt tới 80% so với vitamin E trong dự phòng ôxy hoá linoleic acid (một acid béo không no). Một cơ chế thú vị khác là vitamin K cũng đóng vai trò hoạt hoá hai yếu tố đảo ngược sự đông máu là protein S và C trong khi đó sự thiếu hụt protein S và C cũng có thể là nguyên nhân làm máu đông.
Các thuốc kháng vitamin K dùng trong bệnh tim mạch
Bình thường khi bị đứt hay vỡ mạch máu thì xảy ra hiện tượng chảy máu. Khi đó cơ thể huy động hệ thống đông máu để cầm máu. Đó là phản ứng bảo vệ của cơ thể, có sự tham gia của nhiều yếu tố đông máu. Tuy nhiênphần lớn các yếu tố đông máu chỉ có thể hoạt động khi có mặt vitamin K. Vitamin K hoạt hoá các yếu tố đông máu bằng chuyển đổi gốc glutaminic (Glu) thành gốc gamma carboxy glutaminic. Do vậy, vitamin K có vai trò quan trọng trong quá trình đông máu, vì thiếu nó thì máu không đông được. Tuy nhiên một số bệnh lý tim mạch lại thường hay kèm theo tình trạng tăng đông máu, dễ dẫn đến tạo thành các cục máu đông trong lòng mạch, làm tắc mạchmáu và gây ra những hậu quả nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tắc mạch phổi, có thể dẫn đến tử vong. Từ đó các nhà nghiên cứu đã cho ra đời các thuốc kháng lại vitamin K như warfarin (coumadine), sintrom,previscan,để làm loãng máu, không cho máu đông và vón cục. Nếu bạn uống thuốc warfarin, một thuốc kháng vitamin K có tác dụng làm loãng máu, bạn cần biết rằng vitamin K có thể làm giảm tác dụng của thuốc. Do vậy, sử dụng vitamin K ch ống chỉ định ở những người điều trị bằng thuốc chống đông.
Trong quá trình điều trị bằng thuốc kháng vitamin K, không nên ăn các loại thực phẩm chứa nhiều vitamin K. Tuy nhiên nếu bệnh nhân dùng các loại thuốc kháng vitamin Kquá liều lại có thể gây thiếu vitamin K, làm máu loãng quá mức.Thiếu vitamin K thì thời gian đông máu kéo dài, gây ra các vết bầm tím và xuất huyết, như rong kinh, chảy máu lợi, vết thương khó cầm máu. Khi đó lại cần dùng thêm vitamin K để tái phuc hồi quá trình đông máu.
(Theo thế giới sức khỏe)
Phòng xơ hoá động mạch ở người cao tuổi
Quả kiwi chứa nhiều vitamin K, tốt cho hệ tim mạch
Xơ hoá động mạch là một bệnh lý nguy hiểm, dẫn đến cơn đau tim và đột quỵ. Bình thường động mạch mềm mại, gấp lại dễ dàng như ống nhựa mềm. Trong thành động mạch có lớp cơ trơn, khi co lại có tác dụng co bóp làm máu lưu thông. Một động mạch bị xơ cứng thì không thể co bóp được. Tuổi cao là một nguyên nhân chính của xơ cứng động mạch. Khi sinh thiết tử thi ở một bệnh viện công lập vào đầu những năm 1900, nhà giải phẫu bệnh học người Đức Monckeberg nhận thấy lớp giữa thành động mạch bị vôi hoá, chính là cơ sở của xơ hoá động mạch,không nhìn thấy được. Xơ hoá động mạch xảy ra do tuổi cao, chứ không liên quan gì đến cholesterol cả. Đó là vôi hoá lớp giữa động mạch. Trong khi đó xơ vữa động mạch lại xảy ra bên trong thành mạch, có thể nhìn thấy được. Vitamin K2 đặc biệt giữ không cho canxi và phospho lắng đọng vào động mạch chủ và làm đảo nghịch hiệu quả của thức ăn không tốt cho tim. Qua nghiên cứu các nhà khoa học cho thấy vitamin K dường nhưcó tác dụng làm dừng quá trình vôi hoá và cứng thành mạch máu.
Bảo vệ tim mạch ở người trẻ tuổi
Đột tử do cơn đau tim kết hợp với canxi hoá động mạch, chủ yếu ở người trẻ. Trong nghiên cứu tim mạch mang tên Fragmingham, một nam giới 35 tuổi bị vôi hoá động mạch chủ có nguy cơ tử vong do cơn đau tim cấp tăng gấp 7 lần bình thường. Những người dưới 65 tuổi có nguy cơ tử vong do cơn đau tim gấp 2 lầnnếu bị vôi hoá thành động mạch chủ. Trong một thí nghiệm trên động vật, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã sử dụng chế độ đặc biệt trong 3 tuần để gây nên xơ vữa động mạch, rồi tính lượng canxi lắng đọng trong thành động mạch. Một số động vật được cho ăn thêm 100 mg/kg cân nặng vitamin K. Những con vật không dùng vitamin K thì nồng độ canxi khoảng 17,5 mcg/mg, còn vitamin K giảm trung bình 1 mcg/kg. Các tổn thương van tim bị thoái lui nhanh chóng bởi dùng vitamin K.
Dự phòng các cục máu đông
Khả năng này của vitamin K là do dự phòng lắng đọng tiểu cầu, một quá trình khác với đông máu. Lắng đọng tiểu cầu là do stress ôxy hoá và gốc tự do trong khi đó vitamin K có tác dụng chống ôxy hoá mạnh. Một số nghiên cứu trên động vật bị stress ôxy hoá chỉ ra rằng vitamin K mạnh hơn vitamin E trong việc lọc sạch các gốc tự do, phòng ngừa tổn thương tế bào do bị ôxy hoá bởi các gốc tự do. Hiệu quả đạt tới 80% so với vitamin E trong dự phòng ôxy hoá linoleic acid (một acid béo không no). Một cơ chế thú vị khác là vitamin K cũng đóng vai trò hoạt hoá hai yếu tố đảo ngược sự đông máu là protein S và C trong khi đó sự thiếu hụt protein S và C cũng có thể là nguyên nhân làm máu đông.
Các thuốc kháng vitamin K dùng trong bệnh tim mạch
Bình thường khi bị đứt hay vỡ mạch máu thì xảy ra hiện tượng chảy máu. Khi đó cơ thể huy động hệ thống đông máu để cầm máu. Đó là phản ứng bảo vệ của cơ thể, có sự tham gia của nhiều yếu tố đông máu. Tuy nhiênphần lớn các yếu tố đông máu chỉ có thể hoạt động khi có mặt vitamin K. Vitamin K hoạt hoá các yếu tố đông máu bằng chuyển đổi gốc glutaminic (Glu) thành gốc gamma carboxy glutaminic. Do vậy, vitamin K có vai trò quan trọng trong quá trình đông máu, vì thiếu nó thì máu không đông được. Tuy nhiên một số bệnh lý tim mạch lại thường hay kèm theo tình trạng tăng đông máu, dễ dẫn đến tạo thành các cục máu đông trong lòng mạch, làm tắc mạchmáu và gây ra những hậu quả nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tắc mạch phổi, có thể dẫn đến tử vong. Từ đó các nhà nghiên cứu đã cho ra đời các thuốc kháng lại vitamin K như warfarin (coumadine), sintrom,previscan,để làm loãng máu, không cho máu đông và vón cục. Nếu bạn uống thuốc warfarin, một thuốc kháng vitamin K có tác dụng làm loãng máu, bạn cần biết rằng vitamin K có thể làm giảm tác dụng của thuốc. Do vậy, sử dụng vitamin K ch ống chỉ định ở những người điều trị bằng thuốc chống đông.
Trong quá trình điều trị bằng thuốc kháng vitamin K, không nên ăn các loại thực phẩm chứa nhiều vitamin K. Tuy nhiên nếu bệnh nhân dùng các loại thuốc kháng vitamin Kquá liều lại có thể gây thiếu vitamin K, làm máu loãng quá mức.Thiếu vitamin K thì thời gian đông máu kéo dài, gây ra các vết bầm tím và xuất huyết, như rong kinh, chảy máu lợi, vết thương khó cầm máu. Khi đó lại cần dùng thêm vitamin K để tái phuc hồi quá trình đông máu.
(Theo thế giới sức khỏe)
0 Comments:
Post a Comment