Một kỹ thuật khả thi và đơn giản để tránh tình trạng tái phát hẹp động mạch, vốn đã được thông bằng ống thông hay stent, đã được phát triển bởi các nhà nghiên cứu, mà dẫn đầu là giáo sư Boris Rubinsky tại Đại học Jerusalem.
Kỹ thuật đặt ống thông là phương pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng” cho chứng nhồi máu cơ tim cấp tính (đau tim), vốn là kết quả của sự gián đoạn đột ngột của dòng máu tới các phần đang đập của tim, thường là do sự vỡ mảng huyết khối trong một động mạch vành bị xơ vữa (trở nên xơ cứng).
Trong kỹ thuật đặt ống thông mạch, một bác sĩ chuyên khoa tim sẽ mở rộng động mạch đã bị nghẽn bằng cách đặt một quả bong bóng được bơm phồng vào trong điểm bị nghẽn. Kỹ thuật này thường được theo sau bởi việc cấy stent vào mạch vành để bảo vệ động mạch, và ngăn ngừa sự tái phát hẹp động mạch van tim (tái tắc nghẽn hay bị bao hẹp). Tuy nhiên, việc phẫu thuật gây phá hủy thành động mạch, và do đó sự tái tắc nghẽn của động mạch đã được thông vẫn còn là một vấn đề lâm sàng lớn trong chuyên khoa tim mạch, cũng như trong những lịch vực khác của y học lâm sàng.
Bởi vì, bệnh tim vẫn còn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở các nước phương Tây, kỹ thuật được phát triển bởi những đội nghiên cứu của giáo sư Rubinsky, cung cấp một công cụ rất giá trị cho việc chữa trị các bệnh nhân tim mạch. Giáo sư Rubinsky là giám đốc Trung tâm kỹ thuật sinh học thuộc Trường kỹ thuật và thông tin tại Đại học Hebrew của Jerusalem và là giáo sư tại Đại học California, Berkeley.
Kỹ thuật này đã sử dụng hiện tượng sinh lý của xung điện một chiều (IRE). IRE phá hủy các tế bào trong vài giây, sử dụng những xung từ trường điện rất ngắn. Nó không gây ra sự phá hủy những cấu trúc khác ngoài chính các tế bào cần thiết. Được so sánh với những kỹ thuật phá hủy tại chỗ các tế bào và mô, IRE rất đơn giản và không yêu cầu sự huấn luyện đặc biệt cho đội y khoa.
Trong kỹ thuật IRE, những điện trường được đưa vào ngang qua những tế bào đã được chọn, xuyên thấu màng tế bào. Tiến trình này khiến cho các tế bào bị chết, do những điện trường gây ra sự phá hủy lâu dài đối với những màng và hậu quả là làm mất sự ổn định của tế bào. Những điện trường phá hủy chỉ màng tế bào, mà không phá hủy thêm những cấu trúc khác trong những vùng được điều trị. Trong khi hiện tượng xung điện một chiều đã được biết đến trong nhiều thập kỷ, một đội nghiên cứu mà dẫn đầu là giáo sư Rubinsky đã phát triển một mô hình ứng dụng mới mà chỉ ảnh hưởng đến những phân tử đã được chọn trong mô, và do đó, kết quả là gần đây nó chỉ mới được sử dụng một cách nghiêm ngặt trong y khoa cho những ứng dụng khác nhau trong việc phá hủy mô.
Trong một bài báo đăng vào ngày 9 tháng ba của tạp chí PLoS ONE, đội nghiên cứu của giáo sư Rubinsky đã chứng minh rằng IRE có thể phá hủy hiệu quả, nhanh chóng và an toàn những tế bào gây ra tình trạng tái tắc nghẽn ở chuột. Trong nghiên cứu này, IRE đã phá hủy thành công hầu hết tất cả những tế bào đó trong ít hơn 23 giây, mà không phá hủy bất kỳ cấu trúc nào xung quanh. Những thử nghiệm lâm sàng trên người để điều trị chứng tái tắc nghẽn đã được lên kế hoạch trong tương lai gần.
IRE gần đây đã được sử dụng lần đầu tiên trên người thử nghiệm tại Melbourne, Australia, để điều trị những người bị ung thư phổi, gan và tuyến tiền liệt. Những thử nghiệm lâm sàng sử dụng IRE tiếp theo điều trịnh đặt ống thông mạch đã được lên kế hoạch trong tương lai gần. Giáo sư Jay Lavee, trưởng đơn vị ghép tim tại Trung tâm y khoa Sheba, Tel Hashomer, đang phối hợp với giáo sư Rubinsky trong việc phát triển kỹ thuật IRE cho các bệnh nhân mắc bệnh tim.
Theo Bacsi / MedicalNews Today
Kỹ thuật đặt ống thông là phương pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng” cho chứng nhồi máu cơ tim cấp tính (đau tim), vốn là kết quả của sự gián đoạn đột ngột của dòng máu tới các phần đang đập của tim, thường là do sự vỡ mảng huyết khối trong một động mạch vành bị xơ vữa (trở nên xơ cứng).
Trong kỹ thuật đặt ống thông mạch, một bác sĩ chuyên khoa tim sẽ mở rộng động mạch đã bị nghẽn bằng cách đặt một quả bong bóng được bơm phồng vào trong điểm bị nghẽn. Kỹ thuật này thường được theo sau bởi việc cấy stent vào mạch vành để bảo vệ động mạch, và ngăn ngừa sự tái phát hẹp động mạch van tim (tái tắc nghẽn hay bị bao hẹp). Tuy nhiên, việc phẫu thuật gây phá hủy thành động mạch, và do đó sự tái tắc nghẽn của động mạch đã được thông vẫn còn là một vấn đề lâm sàng lớn trong chuyên khoa tim mạch, cũng như trong những lịch vực khác của y học lâm sàng.
Bởi vì, bệnh tim vẫn còn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở các nước phương Tây, kỹ thuật được phát triển bởi những đội nghiên cứu của giáo sư Rubinsky, cung cấp một công cụ rất giá trị cho việc chữa trị các bệnh nhân tim mạch. Giáo sư Rubinsky là giám đốc Trung tâm kỹ thuật sinh học thuộc Trường kỹ thuật và thông tin tại Đại học Hebrew của Jerusalem và là giáo sư tại Đại học California, Berkeley.
Kỹ thuật này đã sử dụng hiện tượng sinh lý của xung điện một chiều (IRE). IRE phá hủy các tế bào trong vài giây, sử dụng những xung từ trường điện rất ngắn. Nó không gây ra sự phá hủy những cấu trúc khác ngoài chính các tế bào cần thiết. Được so sánh với những kỹ thuật phá hủy tại chỗ các tế bào và mô, IRE rất đơn giản và không yêu cầu sự huấn luyện đặc biệt cho đội y khoa.
Trong kỹ thuật IRE, những điện trường được đưa vào ngang qua những tế bào đã được chọn, xuyên thấu màng tế bào. Tiến trình này khiến cho các tế bào bị chết, do những điện trường gây ra sự phá hủy lâu dài đối với những màng và hậu quả là làm mất sự ổn định của tế bào. Những điện trường phá hủy chỉ màng tế bào, mà không phá hủy thêm những cấu trúc khác trong những vùng được điều trị. Trong khi hiện tượng xung điện một chiều đã được biết đến trong nhiều thập kỷ, một đội nghiên cứu mà dẫn đầu là giáo sư Rubinsky đã phát triển một mô hình ứng dụng mới mà chỉ ảnh hưởng đến những phân tử đã được chọn trong mô, và do đó, kết quả là gần đây nó chỉ mới được sử dụng một cách nghiêm ngặt trong y khoa cho những ứng dụng khác nhau trong việc phá hủy mô.
Trong một bài báo đăng vào ngày 9 tháng ba của tạp chí PLoS ONE, đội nghiên cứu của giáo sư Rubinsky đã chứng minh rằng IRE có thể phá hủy hiệu quả, nhanh chóng và an toàn những tế bào gây ra tình trạng tái tắc nghẽn ở chuột. Trong nghiên cứu này, IRE đã phá hủy thành công hầu hết tất cả những tế bào đó trong ít hơn 23 giây, mà không phá hủy bất kỳ cấu trúc nào xung quanh. Những thử nghiệm lâm sàng trên người để điều trị chứng tái tắc nghẽn đã được lên kế hoạch trong tương lai gần.
IRE gần đây đã được sử dụng lần đầu tiên trên người thử nghiệm tại Melbourne, Australia, để điều trị những người bị ung thư phổi, gan và tuyến tiền liệt. Những thử nghiệm lâm sàng sử dụng IRE tiếp theo điều trịnh đặt ống thông mạch đã được lên kế hoạch trong tương lai gần. Giáo sư Jay Lavee, trưởng đơn vị ghép tim tại Trung tâm y khoa Sheba, Tel Hashomer, đang phối hợp với giáo sư Rubinsky trong việc phát triển kỹ thuật IRE cho các bệnh nhân mắc bệnh tim.
Theo Bacsi / MedicalNews Today
0 Comments:
Post a Comment